Và rồi chẳng còn ai – một tác phẩm viết về những con người với những tội lỗi không chứng cứ, không bị luật pháp trừng trị nhưng không thoát khỏi sự trừng phạt của công lý.

Án mạng trên đảo hoang là mô típ thường gặp trong thế giới tiểu thuyết trinh thám.
Mô típ này thường diễn ra như sau:
Một nhóm người cùng nhau lên một hòn đảo. Vì một lý do nào đó mà sau khi họ lên đảo, phương tiện vận chuyển từ đất liền đến đảo gặp trục trặc khiến họ bị mắc kẹt trên đảo trong một khoảng thời gian nhất định. Hòn đảo lúc này trở thành một hiện trường khép kín (hoặc chí ít nhìn bề ngoài là như vậy). Và rồi, những vụ án mạng lần lượt xảy ra. Thám tử phải chạy đua với thời gian để tìm ra hung thủ giấu mặt, ngăn chặn những cái chết tiếp tục xuất hiện. Hoặc, một biến thể khác, thám tử phải giải mã được một bí ẩn nào đó từng xảy ra trên đảo.
Có thể bắt gặp mô típ tương tự trong nhiều tiểu thuyết trinh thám như: Thập giác quán của Yukito Ayatsuji, Án mạng mười một chữ của Higashino Keigo, Đảo kinh hoàng của Dennis Lehane, Đảo trị liệu bí ẩn của Sebastian Fitzek, vân vân.
Và rồi chẳng còn ai cũng áp dụng mô típ này. Nhưng tất nhiên, với một nhà văn trinh thám luôn đầy những ý tưởng độc đáo, Agatha Christie luôn biết cách tạo ra sự khác biệt để tăng tính hấp dẫn cho câu chuyện của bà.
Cụ thể, trong cuốn Và rồi chẳng còn ai, trên hòn đảo có tên Chiến Binh, Agatha Christie không chỉ tạo ra một chuỗi án mạng với số lượng nạn nhân lên đến 10 người. Mà bà thậm chí còn thách thức độc giả bằng cách cung cấp thứ tự và cách thức ra tay của hung thủ thông qua một bài đồng dao.
Đáng nói là, cả 10 nạn nhân đều từng trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra một vụ án mạng trong quá khứ nhưng không có đủ bằng chứng để kết tội.
Vậy điều gì đã diễn ra trong cuốn sách này? Hung thủ bí ẩn đứng đằng sau toàn bộ chuỗi thảm án trên đảo là ai?
Mời bạn cùng mình tìm hiểu nha.
(*) Lưu ý: Nội dung bài viết có thể tiết lộ nội dung cuốn sách. Để không ảnh hưởng đến trải nghiệm một cách tuyệt đối, bạn hãy đọc sách trước khi đọc bài viết này nha.
Chuyện gì đã xảy ra?
Ở ngoài khơi vùng biển Devon nước Anh, có một hòn đảo được đặt tên nghe rất kêu: đảo Chiến Binh. Trên đảo, sừng sững một tòa biệt thự sang trọng, đầy đủ tiện nghi được xây dựng làm nơi nghỉ mát.
Có nhiều lời đồn thổi xung quanh chủ sở hữu hòn đảo và ngôi biệt thự này. Song cuối cùng, ta biết rằng những bất động sản này được cho là thuộc về một quý ông giàu có tên U. N. Owen – người hào phóng tài trợ cho chuyến nghỉ dưỡng của các vị khách.
Và như vậy, bằng cách này hay cách khác, 10 con người xa lạ tụ họp trên đảo Chiến Binh. Phương tiện duy nhất kết nối họ với đất liền là thuyền máy đã đưa họ lên đảo. Chiếc thuyền sẽ không quay lại đảo trong vòng một tuần. Nói cách khác, nếu không có thuyền máy, đảo Chiến Binh và 10 con người hoàn toàn bị cô lập với thế giới bên ngoài trong khoảng thời gian này.
Những người có mặt trên đảo gồm (sắp xếp theo thứ tự chết):
- Anthony James Marston: Một chàng trai trẻ sống ích kỷ chỉ quan tâm đến bản thân.
- Ethel Rogers: Nữ quản gia kiêm đầu bếp trên đảo.
- John Gordon MacArthur: Tướng quân về hưu, anh hùng trong thế chiến I.
- Thomas Rogers: Quản gia trên đảo, chồng của Ethel Rogers.
- Emily Caroline Brent: Một phụ nữ có tuổi sùng đạo từng là quản lý một trại dưỡng lão.
- Lawrence Wargrave: Thẩm phán về hưu.
- Edward George Armstrong: Bác sĩ đang thành công trong sự nghiệp.
- William Henry Blore: Cựu thanh tra cảnh sát và hiện là thám tử tư.
- Philip Lombard: Cựu lính đánh thuê từng tham chiến ở nhiều nơi trên thế giới.
- Vera Elizabeth Claythorne: Nữ giáo viên trẻ.

Khi trở về phòng riêng sắp xếp hành lý, các vị khách đều phát hiện một bài đồng dao kỳ lạ được đóng khung treo trong phòng riêng của mình. Bài đồng dao có nội dung như sau:
Mười tên lính nhỏ đi ăn
Một tên chết nghẹn, giờ còn chín tên
Chín tên thức muộn trong đêm
Một quên không dậy, tám tên ngậm ngùi.
Devon du thuyền chúng chơi
Một tên nằm lại, bảy thời ra đi.
Một tên bổ củi làm chi,
Bổ đôi một đứa, sáu tên muộn phiền.
Sáu đem tổ ong ra nghiền,
Một ong đốt chết, còn năm sững sờ.
Đến toà năm đứa kia chờ,
Một vào Thượng thẩm, bốn ra biển ngồi.
Bốn tên cùng ra biển trời.
Trích đỏ nuốt một, giờ còn lại ba.
Vườn thú ba đứa la cà,
Gấu to vồ một, còn hai vẹn toàn.
Hai tên đi dưới nắng vàng,
Một cong khô chết, một tên bơ phờ.
Còn tên lính nhỏ thẫn thờ
Hắn đi treo cổ mình lên trần nhà.
Và rồi chẳng còn ai.
Khi trở xuống gian bếp, các vị khách lại phát hiện thêm một điều kỳ lạ. Một chiếc khay đặt 10 bức tượng hình người nhỏ làm bằng gốm sứ liên tưởng đến nội dung bài đồng dao. Không ai trong số họ tỏ ra bận tâm đến ý nghĩa thực sự của sự sắp đặt lạ lùng này. Bởi, tất cả họ đều đang chăm chăm nghĩ tới việc tận hưởng kỳ nghỉ hiếm hoi trên hòn đảo tuyệt đẹp, được chủ cấp đầy đủ chẳng thua trong đất liền.
Thế rồi, một sự việc xảy ra buộc họ phải có cái nhìn khác.
Sau bữa tối đầu tiên trên đảo với những món ăn thượng hạng, các vị khách đang thư thái nhâm nhi các loại đồ uống ngon lành, một giọng nói bí ẩn vang lên phá vỡ bầu không khí. Giọng nói bí ẩn lần lượt nêu ra tội trạng của từng vị khách. Mười con người, mười tội danh, nhưng điểm chung là họ vẫn đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật vì chẳng có bằng chứng nào kết tội được họ.
Các vị khách dần nhận ra mình đã bị lừa lên đảo và chẳng có quý ông U. N. Owen nào cả. Vì như thẩm phán Lawrence Wargrave suy luận, U. N. Owen, thực chất là cách đọc chệch của Unknown Owen, nghĩa là vô danh hay chẳng là ai cả.
Khi tâm trí những vị khách còn đang hoảng loạn hồi tưởng về những tội lỗi mình đã gây ra trong quá khứ, cái chết đầu tiên ập tới, đột ngột, không báo trước. Đó là chàng trai trẻ Anthony James Marston. Cậu chết do mắc nghẹn. Đúng như trong nội dung bài đồng dao kỳ lạ về mưới tên lính nhỏ.
Rồi cái chết thứ hai, thứ ba, thứ tư,… xảy ra.
Cách thức chết của các nạn nhân hoàn toàn trùng khớp với nội dung bài đồng dao. Và mỗi khi có một người chết, một bức tượng hình người trong bếp lại “không cánh mà bay” một cách bí ẩn.
Đến cuối cùng, khi cảnh sát xuất hiện trên đảo, chẳng còn vị khách nào sống sót, tương ứng với câu cuối trong bài đồng rao chết chóc: “Và rồi chẳng còn ai”.

Agatha Christie thật độc ác trong “Và rồi chẳng còn ai”
Đọc lại Và rồi chẳng còn ai, mình trộm nghĩ, hiếm có tác phẩm nào của Agatha Christie mà thể hiện sự “máu lạnh” như vậy.
Đơn cử như trong Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông, dù tất cả hành khách trên khoang tàu đều nhúng tay vào vụ án mạng nhưng Agatha Christie đã mở cho họ một lối thoát thông qua việc để cho Hercule Poirot gợi ý họ khai với cảnh sát rằng hung thủ đã tận dụng vụ lở tuyết để trốn thoát khỏi tàu. Hay như trong Chuỗi án mạng A.B.C, nạn nhân cuối cùng trong chuỗi án mạng đã may mắn được cứu sống sau cú đâm chí mạng của hung thủ nhờ được cảnh sát phát hiện sớm, đồng thời, người bị hung thủ đổ oan cũng được trả tự do.
Thế nhưng, trong Và rồi chẳng còn ai, ngay từ đầu Agatha Christie đã không muốn để ai sống sót rời đảo.
Bà đã dốc công dựng lên một “pháp trường” không lối thoát dành cho 10 con người trên đảo: Đảo Chiến Binh. Một pháp trường nằm giữa đại dương bao la, bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài, được ngụy trang khéo leo bằng vỏ bọc xa hoa, tráng lệ.
Quan trọng hơn, bà không “cài cắm” trên đảo một cảnh sát, một thám tử hay một thế lực chính nghĩa nào đó có khả năng bảo vệ 10 nạn nhân khỏi “lưỡi hái tử thần”.
Lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng khó thoát.

Mười con người bị đẩy vào tình thế buộc phải đối diện với án tử hình dành cho mình, dù luật pháp không thể kết án những tội lỗi họ gây ra trong quá khứ. Agatha Christie không cần những tên tội phạm dằn vặt, hối hận, ăn năn về tội lỗi. Bà muốn tất cả phải bị xử tử.
Đảo Chiến Binh rộng lớn là thế nhưng chẳng có “cửa sống” nào cho những con người trên đảo. Kể từ họ đặt trên lên hòn đảo, họ đã tự đặt bút ký vào bản án tử dành cho chính mình.
Hoàn toàn không có chiếc “phao cứu sinh” nào được nữ nhà văn quăng ra chọ những người này.
Thậm chí, bà còn muốn họ phải nếm trải từng cung bậc cảm xúc trước cái chết. Từ sợ hãi, hoảng loạn rồi chuyển sang tuyệt vọng chờ đợi cái chết đến nuốt trọn lấy từng người bọn họ. Bãi biển Devon thơ mộng hóa thành biển lửa địa ngục chực chờ thiêu đốt những tù nhân mới đến.
Sự tuyệt vọng đến cùng cực này thể hiện rõ nhất ở phần cuối. Khi Vera Claythorne trở thành vị khách cuối cùng sống sót, cô không lựa chọn chờ đợi người đến cứu mà chọn treo cổ tự sát.
Đọc cuốn sách này, độc giả hẳn có cảm giác vô cùng tuyệt vọng và bất lực.
Vì dù Agatha Christie cài cắm nhiều manh mối giúp độc giả lần ra hung thủ. Nhưng càng về những trang sách cuối cùng, độc giả, hay ít nhất là mình, nhận ra, dù có thể xâu chuỗi các manh mối thành một bức tranh tổng thể và biết được hung thủ là ai thì kết cục của 10 con người chẳng có gì thay đổi. Không ai có thể sống xót! Có cảm giác mọi nỗ lực của độc giả đều trở nên vô nghĩa trước quyết tâm giết sạch của nhà văn.
Chút suy ngẫm: Ranh giới giữa công lý và cái ác vốn rất mong manh
Đọc Và rồi chẳng còn ai khiến mình liên tưởng đến cái kết đầy ám ảnh trong bộ phim Se7en (7 tội lỗi). Trong phim, Mills – người đại diện cho công lý, chính nghĩa là một chàng cảnh sát trẻ, đầy nhiệt huyết, tin bản thân có giúp thế giới tốt đẹp hơn, bị cuốn vào một chuỗi vụ án mạng thảm khốc gây ra bởi một tên sát thủ máu lạnh và ngạo mạn. Dù hắn đã đến đầu thú nhưng cảnh sát hoàn toàn không có bằng chứng kết tội nên hắn được thả ra. Mills không ngờ tên sát nhân nhắm đến gia đình mình. Cuối phim, khi Mills chứng kiến chiếc đầu nhuốm máu của người vợ đang mang thai của mình, cơn kích động trong anh bùng nổ, ranh giới giữa công lý và cái ác vỡ vụn, Mills nổ súng kết liễu tên sát nhân. Đó là khoảnh khắc công lý được thực thi nhưng cũng là khoảnh khắc một kẻ sát nhân khác được tạo ra. Đó là Mills.
Và rồi chẳng còn ai giống như một phiên tòa xét xử những tội ác không bị pháp luật trừng trị. Phiên tòa này không có bồi thẩm đoàn, không có thẩm phán, không có người chứng kiến. Mười tên tội phạm đối diện với một đao phủ duy nhất: chính là Agatha Chrisite. Cho dù tội ác của chúng là gì, bản án dành cho chúng đều là tử hình.
Mình không biết Agatha Christie đã suy nghĩ điều gì hay hoàn cảnh xã hội khi bắt tay viết cuốn tiểu thuyết này ra sao. Nhưng với mình, Và rồi chẳng còn ai là một cuốn tiểu thuyết quá sức đen tối, ngùn ngụt sự bất bình, căm phẫn với những tội ác ngoài vòng pháp luật.
Mình đồng cảm nhưng không đồng tình với cách làm của bà trong cuốn tiểu thuyết này.
Theo mình, dù 10 con người trên đảo đều là những kẻ có tội nhưng không thể tự vào vai người thực thi công lý để ra tay sát hại tất cả.
Sát hại kẻ sát nhân tuy giúp công lý được thực thi nhưng cũng biến người thực thi công lý trở thành kẻ ngang hàng với chúng.
Không thể chứng minh công lý bằng đôi bàn tay vấy máu. Công lý thực sự được sinh ra để bảo vệ lẽ phải chứ không phải để bị lợi dung nhằm tiếp tay cho cái ác!
Cuộc sống luôn tồn tại những bất công. Nhưng không thể vì vậy mà ta đánh mất đi công lý trong tâm, trong cách hành xử.
Do đó, nếu được tham gia viết cuốn Và rồi chẳng còn ai với Agatha Christie, mình sẽ để một nhân vật đại diện cho công lý thực sự lên đảo điều tra, tìm ra hung thủ để ngăn chặn tối đa số lượng người phải chết. Hoặc mình sẽ để các vị khách tự đầu thú và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Có thể đó là ý nghĩ quá mộng mơ nhưng mình nghĩ dù chỉ cứu sống được một người cũng tốt hơn là chẳng còn ai sống sót!
Kết lại: Với mình, Và rồi chẳng còn ai là một trong những cuốn tiểu thuyết không viết về thám tử Hercule Poirot hấp dẫn nhất của nữ hoàng trinh thám người Anh. Tuy nhiên, mình không đồng tình với cách xử lý câu chuyện của bà.
Cảm ơn bạn đã đọc bài viết khá dài này của mình.
TP.HCM, 06/08/2025
Có thể bạn quan tâm:
Xin chào, mình là Thắng Vũ – người chấp bút cho những bài blog bạn đang đọc. Cảm ơn bạn đã đọc “Nhật ký” của mình dù ngoài kia có hàng tỉ blog thú vị khác. Mình sẽ rất vui nếu bạn thích những dòng nhật ký này đấy!
